1 Trung Quốc đã đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam như thế nào? Sat Sep 26, 2009 12:35 am
Everlasting
I ♥ U
|
|
Quần
đảo Hoàng Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam, điều đó đã được minh chứng
bằng những tài liệu lịch sử có sức thuyết phục. Những bằng chứng khẳng
định Hoàng Sa là của Việt Nam phải kể đến là tờ Châu bản có chữ ký của
vua Bảo Đại (1926-1945) viết trên giấy cỡ 21,5x31cm, một phần trong đó
mang nội dung liên quan đến chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo
Hoàng Sa vừa được nhà nghiên cứu Phan Thuận An tìm thấy, bàn giao cho
Bộ Ngoại giao hôm 26/6.
Nhà nghiên cứu Phan Thuận An (trái) trao tờ Châu bản gốc cho đại diện Bộ Ngoại giao. Ảnh giadinh.net
Châu bản có chữ ký của vua Bảo Đại được tìm thấy tại Phủ Ngọc Sơn công
chúa (con gái vua Đồng Khánh và là em ruột vua Khải Định), có nội dung:
Vào ngày 10/2/1939, Tòa khâm sứ Trung kỳ có đề nghị Nam triều nên
thưởng huy chương Long tinh hạng 5 cho đơn vị lính khố xanh ở Trung kỳ,
vì họ đã có công trong việc dẹp loạn “man di” ở miền núi và có công
trong “việc lập đồn phòng thủ ở đảo Hoàng Sa”.
Đến ngày
15/2/1939, Tổng lý ngự tiền văn phòng Phạm Quỳnh dâng lên hoàng đế Bảo
Đại để nhà vua duyệt và nhà vua đã phê vào văn bản là “chuẩn y”. Một
lần nữa văn bản này khẳng định, dưới triều Nguyễn, quần đảo Hoàng Sa
thuộc chủ quyền của Việt Nam.
Quân đồn trú Pháp - Việt chào cờ trên đảo Hoàng Sa. Ảnh tư liệu
Thêm
vào đó là sắc chỉ của triều đình Nguyễn liên quan đến việc canh giữ
quần đảo Hoàng Sa được gia tộc họ Đặng ở huyện đảo Lý Sơn, Quảng Ngãi,
gìn giữ suốt 174 năm. Đã được hậu duệ của dòng họ Đặng, ông Đặng Văn
Thanh trao cho Sở Văn hóa - Thể thao và Du lịch tỉnh Quảng Ngãi. Đây
là sắc chỉ của vua Minh Mạng (triều Nguyễn), phái một đội thuyền gồm 3
chiếc với 24 lính thủy ra canh giữ đảo Hoàng Sa vào ngày 15 tháng 4 năm
Minh Mạng thứ 15 (tức năm Ất Mùi 1835). Đây là sắc chỉ duy nhất còn
nguyên vẹn bản gốc liên quan đến quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam. Sắc
chỉ này là bằng chứng lịch sử khẳng định mỗi năm vua Minh Mạng đều cho
thành lập một hải đội gồm các thợ lặn thiện chiến nhất ở Lý Sơn giong
buồm đến Hoàng Sa để tìm hải vật và cắm bia khẳng định chủ quyền của
Việt Nam ở quần đảo này.
vào đó là sắc chỉ của triều đình Nguyễn liên quan đến việc canh giữ
quần đảo Hoàng Sa được gia tộc họ Đặng ở huyện đảo Lý Sơn, Quảng Ngãi,
gìn giữ suốt 174 năm. Đã được hậu duệ của dòng họ Đặng, ông Đặng Văn
Thanh trao cho Sở Văn hóa - Thể thao và Du lịch tỉnh Quảng Ngãi. Đây
là sắc chỉ của vua Minh Mạng (triều Nguyễn), phái một đội thuyền gồm 3
chiếc với 24 lính thủy ra canh giữ đảo Hoàng Sa vào ngày 15 tháng 4 năm
Minh Mạng thứ 15 (tức năm Ất Mùi 1835). Đây là sắc chỉ duy nhất còn
nguyên vẹn bản gốc liên quan đến quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam. Sắc
chỉ này là bằng chứng lịch sử khẳng định mỗi năm vua Minh Mạng đều cho
thành lập một hải đội gồm các thợ lặn thiện chiến nhất ở Lý Sơn giong
buồm đến Hoàng Sa để tìm hải vật và cắm bia khẳng định chủ quyền của
Việt Nam ở quần đảo này.
Từ sắc chỉ
này, theo nghiên cứu của giới sử học Quảng Ngãi, công việc bảo vệ Hoàng
Sa thời xưa kéo dài suốt nhiều năm và rất nhiều hải đội người Việt đã
nối tiếp nhau có mặt ở quần đảo Hoàng Sa. Không chỉ tộc họ Đặng mà ở
huyện đảo Lý Sơn còn có các tộc họ Võ, Phạm, Nguyễn... cũng liên tiếp
nhau đến Hoàng Sa - Trường Sa theo lệnh của triều đình
Bia chủ quyền VN ở Hoàng Sa được dựng vào những năm 1930 (ảnh chụp tại phòng lưu trữ tư liệu Hoàng Sa, Đà Nẵng).
này, theo nghiên cứu của giới sử học Quảng Ngãi, công việc bảo vệ Hoàng
Sa thời xưa kéo dài suốt nhiều năm và rất nhiều hải đội người Việt đã
nối tiếp nhau có mặt ở quần đảo Hoàng Sa. Không chỉ tộc họ Đặng mà ở
huyện đảo Lý Sơn còn có các tộc họ Võ, Phạm, Nguyễn... cũng liên tiếp
nhau đến Hoàng Sa - Trường Sa theo lệnh của triều đình
Bia chủ quyền VN ở Hoàng Sa được dựng vào những năm 1930 (ảnh chụp tại phòng lưu trữ tư liệu Hoàng Sa, Đà Nẵng).
Và
mới đây nhất cũng từ tủ sách gia đình tại phủ của Công chúa Ngọc Sơn
(con vua Đồng Khánh, em vua Khải Định, cô ruột vua Bảo Đại) ở 31 Nguyễn
Chí Thanh, TP Huế, nhà Huế học Phan Thuận An vừa tìm thấy thêm một Châu
bản của triều Nguyễn khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo
Hoàng Sa.
Theo ông Phan Thuận An : Tờ Châu bản này khẳng định
thêm một lần nữa là trước khi diễn ra Thế chiến thứ 2 và quân đội Nhật
tấn công, xâm chiếm vùng châu Á - Thái Bình Dương, đảo Hoàng Sa đã
thuộc chủ quyền của Việt Nam. Và sau khi Thế chiến thứ 2 kết thúc thì
Hoàng Sa vẫn trở lại thuộc chủ quyền của nước ta như cũ”.
Ông Nguyễn Văn Đức |
qua lời kể của ông Nguyễn Văn Đức, 35 năm trước cùng các cộng sự vượt
trùng dương đến với Hoàng Sa. Nhiệm vụ của ông là canh giữ biển trời Tổ
quốc với chức vụ là đảo trưởng theo lệnh của Bộ chỉ huy biệt khu Quảng
Đà. Khi đó quần đảo Hoàng Sa thuộc quyền kiểm soát của chính quyền Sài
Gòn, thuộc về người Việt, đó là sự thật lịch sử không thể chối cãi.
Theo lời ông Đức có hai di tích ở đảo Hoàng Sa ông không thể nào quên.
Đó là cái miếu nhỏ ở góc đảo mà anh em lính đảo vẫn thường ra đó để tìm
chút an bình giữa sóng gió. Và một nghĩa trang có hơn 30 ngôi mộ là hài
cốt của những chiến sĩ người Việt ngã xuống vì bệnh tật nơi đảo xa, là
nắm xương của những người con Việt đã nằm xuống sau những lần đụng độ
với âm mưu xâm lược của ngoại bang.
Ở đó
còn có cả hài cốt của những ngư dân từ miền Trung, miền Bắc gặp nạn
trên đường mưu sinh. Và cũng có cả những nắm xương của lính nước ngoài
bị chúng ta hạ gục khi âm mưu đánh chiếm đảo.
còn có cả hài cốt của những ngư dân từ miền Trung, miền Bắc gặp nạn
trên đường mưu sinh. Và cũng có cả những nắm xương của lính nước ngoài
bị chúng ta hạ gục khi âm mưu đánh chiếm đảo.
Ngoài ra, trên đảo còn có một tấm bia chủ quyền Việt Nam trên quần đảo Hoàng Sa được dựng vào những năm 1930.
Đến năm 1974, Trung Quốc là nước có tranh chấp với Việt Nam và đã chiếm đóng trái phép quần đảo này.
Những người con đã hy sinh vì đất nước mãi mãi được vinh danh
Ngày
19-1-1974, ngày quân Trung Quốc dùng vũ lực đánh chiếm Hoàng Sa - một
phần máu xương của Tổ quốc Việt Nam. Theo lời kể của ông ông Lữ Công
Bảy - quân nhân trên chiến hạm Trần Khánh Dư HQ-4 thì vào thời điểm ấy
phía Trung Quốc đã cho người bí mật làm những nấm mộ giả trong mộ không
có xương cốt, không có bia, chỉ có cọc gỗ và bảng gỗ đóng trước đầu mộ
ghi bằng chữ Trung Quốc với ngày sinh và ngày chết hàng mấy chục năm về
trước. Đây là những nấm mộ ngụy tạo mà ai đó đã dựng lên để chứng tỏ có
người Trung Quốc đã sống và chết trên đảo.
Tình hình tại biển
Đông đột ngột trở nên căng thẳng vào ngày 11-1-1974 khi Trung Quốc
ngang nhiên tuyên bố các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, đang được
chính quyền Sài Gòn quản lý, là một phần lãnh thổ của họ. Ngay sau
tuyên bố nói trên, hải quân Trung Quốc đã mở màn chiến dịch xâm chiếm
Hoàng Sa bằng cách tung nhiều chiến hạm và tàu đánh cá vũ trang xâm
nhập hải phận Hoàng Sa.
Tàu đánh cá vũ trang Trung Quốc chặn đường tàu VN trên đường ra Hoàng Sa - Ảnh tư liệu
Trong
các ngày kế tiếp, phía Trung Quốc bất ngờ đổ người lên các đảo của Việt
Nam. Đến ngày 15-1-1974, quân Trung Quốc đã chiếm đóng các đảo Cam
Tuyền (Robert), Vĩnh Lạc (Money), Quang Hòa (Duncan) và Duy Mộng
(Drummond)...
Ngày 12-1-1974, ngoại trưởng Vương Văn Bắc của
chính quyền Sài Gòn đã cực lực bác bỏ luận điệu ngang ngược và lên án
hành động gây hấn của Trung Quốc, đồng thời Bộ tư lệnh Hải quân Sài Gòn
đã đưa bốn chiến hạm ra vùng biển Hoàng Sa để bảo vệ lãnh thổ. Và trận
hải chiến Hoàng Sa đã nổ ra ngày 19-1-1974.
Cả ngày 17 và
18-1-1974, biển Đông dậy sóng. Phía Trung Quốc tăng cường lực lượng và
cố tình khiêu khích, các chiến hạm của họ tiến sâu vào lãnh hải phía
tây quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam. Đến nửa đêm 18-1, hộ tống hạm Nhật
Tảo HQ-10 đã ra đến nơi chi viện. Đêm ấy, bầu trời Hoàng Sa tối đen như
mực, một đêm cực kỳ căng thẳng.
Sơ đồ các hướng tấn công trận hải chiến Hoàng Sa ngày 19-1-1974
Nhiều
người con của Việt Nam đã hy sinh anh dũng để giành lại lãnh thổ nước
nhà. Những chiến sỹ bị thương nguyện chiến đấu đến cùng để bảo vệ Hoàng
Sa, Ông Lữ Công Bảy nhớ lại: Tình hình bắt đầu căng thẳng, báo hiệu một
trận đụng độ sinh tử không thể nào tránh khỏi.
Phía Trung Quốc nổ súng trước. Vào lúc 8g30, một loạt đạn đại liên và
cối 82 bắn vào đội hình người nhái Việt Nam làm hai binh sĩ tử thương
và hai bị thương. Tiếp đó, hạ sĩ giám lộ Phấn, xạ thủ đại liên 30 trên
nóc đài chỉ huy, bị thương nơi ngực, máu thấm đỏ cả áo. Tiếng la ơi ới
của các anh em bị thương vọng lên đài chỉ huy.
Trong bộ đàm tôi đã nghe tiếng bạn tôi, trung sĩ nhất giám lộ Vương
Thương, báo cáo: HQ-10 đã bị trúng đạn, hạm trưởng Ngụy Văn Thà tử
thương, hạm phó Thành Trí trọng thương ngay bụng. Hầu hết sĩ quan, hạ
sĩ quan và thủy thủ trên đài chỉ huy đều bị tử thương và bị thương rất
nặng.
HQ-4 và HQ-5 quay đầu về hướng nam. Sau đó một giờ không còn thấy HQ-5
ở đâu. HQ-5 do máy yếu và một máy bị sự cố chưa kịp khắc phục nên “rớt”
lại đâu đó. Trên biển HQ-4 trở nên lẻ loi một mình. Đó cũng là lúc hải
quân Trung Quốc tung xuống một lực lượng rất mạnh từ đảo Phú Lâm gần đó
và từ căn cứ ở đảo Hải Nam. Trước tình hình đó, để bảo toàn lực lượng,
hạm trưởng Vũ Hữu San đã vẽ một đường trực chỉ về Đà Nẵng.
Ông Lữ Công Bảy |
tôi đã chứng kiến một cảnh tượng kinh khủng sau chiến trận. Hành lang
dưới tàu tanh đến ngộp thở: mùi máu, mùi cồn, bông băng... Hơn 130 binh
sĩ bám chặt vị trí chiến đấu giờ đều mệt lả, nằm đâu ngủ đó. Họ chỉ cầm
hơi bằng mì gói, nước ngọt và lương khô. Các binh sĩ biệt hải kiệt sức
nằm rải rác trên hành lang phòng ăn.
Ngay
sau đó, tất cả thủy thủ đoàn tập họp đầy đủ nghe thông báo: “Tất cả
chuẩn bị sẵn sàng chiến đấu, tàu được lệnh quay lại Hoàng Sa. Nếu cần
sẽ ủi thẳng lên bờ đảo Hoàng Sa, chiến đấu đến cùng để giữ đảo”. Nhìn
sau lái tàu, tôi biết tàu đang quay lại và hướng thẳng về Hoàng Sa. Tất
cả đều bất động, không ai nói với ai một lời nào trước giờ phút cảm tử
hy sinh cho dân tộc Việt Nam.
Tôi vào phòng hải đồ phía sau đài
chỉ huy mệt lả và thiếp đi, đến khi thức dậy trời tối hẳn, trung sĩ
nhất giám lộ Khiết cho biết tàu đang quay đầu về Đà Nẵng. Anh nói hạm
trưởng San báo cáo thẳng với tư lệnh hải quân là HQ-4 không còn khả
năng chiến đấu, lương thực cạn, cơ số đạn không còn đủ để tác chiến,
các khẩu đại bác đều có trục trặc... Lệnh từ đất liền: các tàu quay về,
hủy bỏ lệnh tấn công tái chiếm Hoàng Sa.
Những người con anh
dũng hy sinh cho dân tộc Việt Nam sẽ mãi mãi được ghi công, các anh đã
ngã xuống để bảo vệ chủ quyền củhttp://www.vitinfo.com.vn/Print/LA66088/default.htmchiến sỹ may mắn sống sót
trong trận chiến sinh tử năm 1974 như ông Lữ Công Bảy , Nguyễn Văn Đức
lại luôn đau đáu một nỗi niềm, như ông Đức đã từng nói : "Tôi sợ những
bạn trẻ sẽ quên, sẽ không biết và không nhớ về Hoàng Sa, sẽ quên mất
một phần máu thịt của Tổ quốc, sẽ quên mất rằng có rất nhiều người con
của đất Việt đã ngã xuống vì Hoàng Sa trong ngày đáng nhớ 19-1-1974".
Có lẽ đó không phải điều trăn trở của riêng ông.
nguồn: http://www.vitinfo.com.vn