1 Những giọt nước cuối cùng Sat Jul 10, 2010 8:33 am
Kristian
Level 6
Tàu “cấp cứu” nước ngọt cho đảo Bé. |
(LĐ)
- Xuất quỹ dự trữ nước ngọt để cấp cho dân đảo Bé (huyện Lý Sơn, Quảng
Ngãi) là một sự kiện chưa từng có trên hòn đảo này. Là bởi, chưa có năm
nào như năm nay, nắng xuyên qua 5 tháng mà không có lấy một giọt mưa
nào rơi trên đảo Bé.
Nắng
hạn đến mức có cảm giác như khối bêtông nơi cầu cảng của đảo muốn cong
vênh lên. Những con bò, đàn dê, con lợn trong chuồng lần lượt đội nón
ra đi vì nước ngọt dành cho người mà còn thiếu trước hụt sau, lấy đâu
ra nước cho đàn gia súc trong lúc dầu sôi lửa bỏng này.
Đỉnh hạn
Với 150 mét khối
nước dự trữ trong “nhà kho” của xã An Bình mà đem phân phối cho 500
nhân khẩu ở đây, thật chẳng khác nào mang muối bỏ bể! Vì vậy, đảo Bé,
đã chính thức phát tín hiệu S.O.S, khiến UBND huyện Lý Sơn phải vào
cuộc. Tuy nhiên, theo kinh nghiệm của các bô lão ở Lý Sơn, nếu trong
tháng này mà trời không mưa, S.O.S không chỉ dành cho đảo Bé mà cả với
đảo Lớn nữa. Do đó, việc vận chuyển nước ngọt cho đảo Bé trong những
ngày qua được xem như những giọt nước cuối cùng cho những nỗ lực “cứu”
hòn đảo này vậy.
Trước khi nhận số nước “cấp cứu” từ đảo Lớn,
mấy ngày qua người dân đảo Bé cũng đã mót vét những giọt nước cuối cùng
ngay trong từng bể chứa của họ. Chưa thấy ở đâu mà nước ngọt đã thành
một thứ xa xỉ như ở đảo Bé này. Đã từng trải qua nhiều mùa hạn hán,
song những cụ già của đảo vẫn không thể hiểu vì sao năm nay thời tiết
lại khắc nghiệt đến vậy với xã An Bình.
Lâu nay nhiều người quan
niệm rằng, thước đo của sự giàu - nghèo trên đảo chính là quy mô từng
bể nước của mỗi gia đình. Nhà có to thì mới xây bể lớn để hứng nước
trời, nhà nào nhỏ thì xây bể bé, chỉ đủ dùng trong vài tháng rồi dài cổ
mong mưa. Thế mà năm nay, bất luận giàu hay nghèo, bể to hay bể nhỏ,
tất cả đều ngửa cổ kêu trời!
Dự lường được tình cảnh này, năm
2008 UBND xã Anh Bình đã đầu tư 600 triệu đồng để xây một bể nước, dung
tích 283 mét khối. Mặc dù có đến hai lớp khoá cẩn thận, xã cũng chưa
đụng đến “kho nước” này giọt nào, thế mà khi xuất kho để “cấp cứu” cho
dân vào ngày 2.7 vừa qua, đong qua đếm lại chỉ còn ... 150 khối. “Chỉ
có đỉnh hạn thì nước mới bốc hơi nhanh như vậy thôi”.
Ban “thanh
tra nước” của xã đã kết luận như vậy sau khi thấy bể nước đã vơi gần
một nửa mà không hiểu vì đâu! Cứ tưởng bể nước đã sạch nhẵn, ấy thế mà
đám trẻ con trên đảo vẫn có thể “mót” những giọt nước cuối cùng được
đấy! Buổi trưa, canh cho lãnh đạo xã ra về, đám trẻ, tay đứa nào cũng
cầm chiếc gàu, xông vào “kho nước” để múc lấy múc để rồi giội ào ào.
Trông chúng lao vào kho nước chẳng khác dân ta lao vào cướp kho thóc
Nhật năm 1945!
Đỉnh hạn đã quét qua 13 hécta đất dành để trồng
hành, biến chúng thành bãi cát không một chút xanh của cỏ dại, khiến
đám trẻ con trên đảo cũng phải ngại ngần, không dám liều mình mang bóng
nhựa ra đó để “thư dãn” mỗi chiều như trước đây nữa. Đỉnh hạn cũng
khiến cho “nghị quyết phát triển đàn gia súc” của xã buộc phải thay đổi
phương án: Bán gấp 26 con bò béo tròn béo trục; đàn dê 30 con núng na
núng nính cũng tống khứ thật nhanh.
“Mỗi ngày, một con vật ấy nó
xơi 5 lít nước cũng đủ “chết” những người nuôi chúng rồi. Tiếc đứt
ruột, nhưng vẫn phải bán thôi anh”. Ông Phan Đình Phương - Chủ tịch
UBND xã An Bình như vẫn còn tiếc nuối trước khi đưa ra quyết định cuối
cùng là “giải tán” đàn bò và dê của xã.
Đủ kiểu tiết kiệm nước
Chủ
của hai chiếc tàu “trúng thầu” chở nước ngọt cấp cứu đảo Bé, có một đôi
vợ chồng chừng 50 tuổi. Ông tên Tựu, còn bà tên Thường. Nắng nóng phát
điên lên được, nhưng nghe bà Thường phát âm giọng Lý Sơn, cả tôi và ông
Phương cũng phải phì cười. Chúng tôi như nghe hai chữ “Tựu - Thường” từ
miệng bà Thường thành “Tựu - Trường”! Biết chúng tôi hiểu sai tên, bà
đính chính: “Không, thường ấy, bình thường ấy mà”. Tôi trêu bà chủ tàu
chở nước ngọt cho... đỡ nóng bức: “Chị là phi thường, chứ sao bình
thường được!”.
Chả là, trời nắng như đổ lửa thế này mà mỗi lần
chuyển vòi nước từ bể nhà này sang bể nhà khác, dù chỉ cách nhau có vài
chục mét, thay vì để cho nước chảy tự do trên quãng đường ấy, bà Thường
canh chừng khi nước gần đầy bể, chạy thục mạng xuống bến để nói với
chồng là “tắt, tắt”, tức tắt máy nổ, rồi chạy ngược dốc lên chỗ có vòi
nước ấy, chuyển sang bể khác, lại chạy trở xuống, hô “mở, mở”. Ông
chồng lại giật máy nổ, tiếp tục bơm nước.
Phơi áo quần cũng phải hứng chậu bên dưới để tiết kiệm nước. |
năm phút, bà Thường lại làm một “tua” ngược dốc cát bỏng để “tắt, tắt -
mở, mở” như thế. Hỏi bà chạy làm chi cho cực vậy, bà Thường hổn hển:
“Tiết kiệm nước chớ! Nếu để nguyên vòi nước ấy mà chuyển từ bể nhà này
sang bể nhà khác, mình mất ít ra cũng 5 lít nước rồi”.
Chao ôi,
để tiết kiệm 5 lít nước ngọt cho mỗi lần chuyển bể, người đàn bà 50
tuổi ấy đã phải toát mồ hôi mỗi ngày vài mươi bận, có khi lượng mồ hôi
phải trả giá kia nhiều bằng số nước tiết kiệm chứ chả chơi!
Ồng
Tựu nhẩm tính, và cũng là bài toán lo xa cho vợ: “Mỗi ngày, chúng tôi
chở được khoảng 20 khối nước, cấp cho 10 nhà. Phải xuôi - ngược cật lực
trong 10 ngày như thế mới cấp xong một đợt. Khi gia đình cuối cùng nhận
được nước thì chắc là gia đình đầu tiên cũng sẽ hết nước. Như thế, chạy
chừng một “tua” thôi, bà Thường nhà tôi đây chắc là sẽ không bình
thường mất”.
Chứng kiến những đứa trẻ ở đảo Bé lớn tồng ngồng
rồi mà vẫn phải tắm trong chậu, mới thấy “thương” cho giọt nước ở nơi
này. Sở dĩ phải tắm trong chậu là vì, nước tắm ấy sẽ được trưng dụng
lần nữa để lau nhà hoặc tưới một vài cây kiểng hiếm hoi sót lại trong
mùa đỉnh hạn. Còn những người phụ nữ ở đây thì quá quen với cảnh xuống
biển giặt áo quần bằng nước mặn, xong lên “tráng qua” một lượt nước
ngọt, rồi mới đem phơi.
Họ cũng không quên lấy chậu hứng bên
dưới số áo quần kia để có hột nước nào rơi vãi thì còn xuống chậu, lại
đem dùng vào việc khác. Riêng cánh đàn ông trên đảo Bé mùa này, ngoài
thời gian đánh cá ngoài biển ban đêm thì chỉ làm mỗi một việc là xuống
biển lấy nước mặn về để ... rửa chén bát. Tuyệt đối không một ai được
mặc áo, tất tật đều ở trần, chỉ độc chiếc quần cộc, phơi tấm lưng đen
như cột nhà cháy.
Anh Nguyễn Đông thanh minh cho cái sự “mất
lịch sự” này: “Mặc áo vô, tất nhiên là phải giặt áo, mất ít nhất là 5
lít nước mỗi ngày”. Rồi anh lo xa: “Chắc hết mùa nắng nóng năm nay, lũ
đàn ông tụi tôi ở đảo Bé này sẽ “quên” mặc áo mất”.
Cần một giải pháp lâu dài cho đảo Bé
Chủ
tịch xã Phan Đình Phương nêu giải pháp: “Chỉ cần một bể nước, dung tích
khoảng 3 ngàn khối là đảo Bé hết khát, bất chấp đỉnh hạn. Mặt bằng để
xây bể nước khổng lồ ấy khỏi phải lo, cái lo nhất là xoay ra đâu 5 tỉ
đồng để xây bể mà thôi”. Tôi quay ông chủ tịch xã: “Nhưng đó mới chỉ là
nước uống thôi, chả nhẽ dân uống nước trừ bữa? Hàng chục hécta đất
trồng tỏi, trồng hành lấy nước đâu để “nuôi” chúng?”.
Ông Phương
tặc lưỡi: “Thì ... cũng phải đành chịu, chỉ sản xuất được mùa mưa thôi.
An Bình này nó như thế mấy trăm năm rồi mà. Hễ khi đủ nước ngọt thì bão
dông tơi bời, lương thực thực phẩm không mang ra đảo được, lại thiếu
gạo; còn khi gạo mắm đủ đầy trong mùa khô hạn thì lại thiếu nước uống!
Kiểu nào cũng “chết””.
Còn một “chiếc phao cứu sinh” cuối cùng
cho đảo Bé, người cũng có nước uống mà cây tỏi, cây hành không chết
khát, đó là chuyển nước từ những chiếc hồ chứa trên các miệng núi lửa ở
đảo Lớn sang. Nhưng hồ chứa nước với 1 triệu mét khối này mới khởi công
cùng ngày với chuyến nước ngọt “cấp cứu” đảo Bé thì không biết đến bao
giờ mới xong.
Cũng hy vọng thế thôi, chứ việc đưa nước ngọt sang
đảo Bé bằng đường ống là điều không đơn giản chút nào. Và như vậy, trên
500 số phận của đảo Bé lại phải tiếp tục gồng mình trong nắng nóng mà
không biết đến bao giờ ông trời mới đặt dấu chấm hết cho một mùa khô
hạn tàn khốc nhất 40 năm qua.
Trần Đăng
nguồn Lao Động